Thứ Ba, 24 tháng 5, 2016

TOÀN VĂN BÀI PHÁT BIỂU CỦA TỔNG THỐNG BARACK OBAMA TẠI HÀ NỘI


Xin chào! Xin chào Việt Nam! 
Cảm ơn, cảm ơn rất nhiều. Cám ơn chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự đón tiếp nồng hậu và lòng hiếu khách trong chuyến viếng thăm này.
Cám ơn tất cả các bạn có mặt hôm nay. Chúng ta có sự hiện diện của những người Việt Nam từ trên khắp đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ, đại diện cho sự năng động, tài năng và hy vọng của Việt Nam.
Trong chuyến thăm này, tim tôi đã nhiều lần rung động bởi sự thân thiện của người Việt. Qua những người đứng dọc hai bên đường, cười và vẫy chào, tôi cảm nhận được tình bạn giữa nhân dân hai nước chúng ta. Tối qua tôi đã đi thăm khu phố cổ ở Hà Nội và thưởng thức một số món ăn Việt nổi bật. Tôi đã thử món bún chả và uống bia Hà Nội. Phải nói là phố phường Hà Nội thật đông đúc, tôi chưa từng nhìn thấy nhiều xe máy như vậy trong đời. Tôi chưa dám thử băng qua đường, nhưng có thể sau này khi tôi quay lại thăm, các bạn sẽ chỉ cách cho tôi.



Tôi không phải là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thăm Việt Nam trong những năm vừa qua. Nhưng giống như nhiều bạn, tôi là người đầu tiên lớn lên khi cuộc chiến đã chấm dứt. Khi quân đội Hoa Kỳ rời Việt Nam, tôi mới 13 tuổi. Lần đầu tôi biết đến Việt Nam, gặp gỡ người Việt, là khi lớn lên ở Hawaii, nơi có một cộng đồng người Mỹ gốc Việt sinh sống.
Cùng lúc đó tại Việt Nam có nhiều người trẻ hơn tôi rất nhiều. Cũng như hai cô con gái của tôi, nhiều bạn cả đời chỉ biết một chuyện – đó là hòa bình và quan hệ bình thường giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Vì thế tôi đến đây, ý thức về quá khứ, về lịch sử khó khăn của chúng ta, nhưng tập trung vào tương lai, vào sự thịnh vượng, an ninh và phẩm giá con người mà chúng ta có thể cùng nhau thúc đẩy. 

Tôi cũng đến đây với lòng tôn trọng sâu sắc đối với di sản cổ xưa của Việt Nam. Hàng thiên niên kỷ qua, nông dân đã trồng cấy trên mảnh đất này. Lịch sử đó được ghi trên Trống đồng Đông Sơn. Hà Nội đã có nghìn năm cạnh sông Hồng. Thế giới quý trọng lụa và tranh Việt Nam, và Văn Miếu sừng sửng đó tượng trưng cho lòng hiếu học của người dân Việt Nam. Nhưng qua nhiều thế kỷ, vận mệnh các bạn thường bị ức chế bởi người khác. Mảnh đất thương yêu của các bạn không phải lúc nào cũng do các bạn tự chủ. Nhưng cũng như tre, tinh thần cương cường của người dân Việt Nam thể hiện qua câu thơ của Lý Thường Kiệt:
"Sông núi nước Nam vua Nam ở.
Rành rành định phận tại sách Trời".
Hôm nay, chúng ta cũng nhớ lại một lịch sử lâu dài hơn giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mà hai bên thường không để ý. Hơn 200 năm trước, một vị khai quốc công thần của chúng tôi, ông Thomas Jefferson, khi trồng lúa đã tìm đến gạo Việt Nam, nổi tiếng là trắng, thơm ngon và năng suất cao. Không lâu sau đó, các tàu buôn của Hoa Kỳ đã cập cảng Việt Nam để giao thương.
Trong Thế Chiến Thứ Hai, người Hoa Kỳ đã đến giúp Việt Nam đấu tranh chống ngoại xâm. Khi phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi, người dân Việt đã cứu giúp. Vào ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, khi người Việt đổ ra những nẻo đường của thành phố này, ông Hồ Chí Minh đã nhắc lại Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ. Ông nói, “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo Hóa đã ban cho họ những quyền không thể xâm phạm. Trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Vào một thời điểm khác, những tuyên xưng cho lý tưởng chung cùng lịch sử tranh đấu chống thực dân có thể đưa hai nước lại gần nhau sớm hơn. Nhưng thay vào đó, sự đối đầu trong Chiến Tranh Lạnh và nỗi sợ chủ nghĩa cộng sản đã đẩy chung ta vào thế xung đột. Như những xung đột trong lịch sử nhân loại, chúng ta lại lần nữa có bài học cay đắng -- chiến tranh, dù với mục đích gì, chỉ đem lại đau khổ và bi kịch.
Ở đài tưởng niệm liệt sĩ không xa đây, và với bàn thờ trong nhiều gia đình khắp nơi trên đất nước, các bạn tưởng nhớ đến 3 triệu người Việt Nam, cả quân và dân, của hai miền đã nằm xuống. Ở bức tường tưởng niệm ở Washington, chúng tôi vẫn có thể chạm vào tên của 58.315 người Mỹ đã ra đi trong cuộc chiến đó. Ở cả hai nước, các cựu chiến binh và gia đình của những người gục ngã vẫn còn đau xót cho bạn bè, người thân đã mất. Như ngay ở Hoa Kỳ, chúng tôi học được rằng dù có bất đồng về cuộc chiến, chúng tôi vẫn luôn vinh danh những người chiến đấu và chào đón họ trở về với sự tôn trọng mà họ xứng đáng. Hôm nay đây, người Việt và người Hoa Kỳ, chúng ta có thể cùng nhau nhìn nhận nỗi đau và sự hy sinh của cả hai bên.
Gần đây hơn, trong hơn hai thập niên qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, và ngày nay, thế giới có thể nhìn rõ những thành tựu mà các bạn đã đạt được. Với công cuộc đổi mới kinh tế và các hiệp định giao thương, trong đó có với Hoa Kỳ, các bạn đã gia nhập vào nền kinh tế toàn cầu, buôn bán hàng hóa khắp thế giới. Đầu tư nước ngoài đang thêm vào. Và là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Châu Á, Việt Nam đã trở thành quốc gia thu nhập trung bình.
Chúng ta có thể nhìn thấy sự tiến bộ của Việt Nam qua những tòa nhà cao tầng ở Hà Nội, Thành phố HCM, những trung tâm thương mại và khu đô thị mới. Chúng ta thấy qua các vệ tinh Việt Nam đã phóng vào không gian, và một thế hệ trẻ trên mạng, bắt đầu các công ty khởi nghiệp và điều hành các dịch vụ kinh doanh mới. Chúng ta thấy qua hàng chục triệu người Việt Nam có Facebook và Instagram. Và các bạn không chỉ đăng ảnh tự sướng -- mặc dầu tôi nghe nói các bạn hay làm vậy -- và mấy hôm nay có nhiều người xin chụp selfie với tôi. Các bạn còn lên tiếng về những việc các bạn quan tâm, như bảo vệ cây cổ thụ ở Hà Nội.
Sự năng động đó đã đem lại tiến bộ thực thụ cho đời sống của rất nhiều người. Việt Nam đã giảm nghèo một cách đáng kể, các hộ gia đình được nâng cao thu nhập và hàng triệu người được nâng lên tầng lớp trung lưu. Đói khát, bệnh tật, tử vong ở phụ nữ và trẻ em đều đã giảm. Số người có được điện nước, số trẻ em được học hành, và tỷ lệ biết đọc -- tất cả đều gia tăng. Đó là những tiến bộ phi thường, là điều các bạn đã làm được trong một thời gian ngắn.
Và trong khi Việt Nam đang chuyển hóa, thì quan hệ giữa hai quốc gia cũng vậy. Chúng ta đã học được bài học của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nói rằng, “Trong một cuộc đối thoại thật sự, đôi bên phải sẵn sàng thay đổi.” Và như vậy, cuộc chiến vốn chia rẽ chúng ta nay lại là nguồn gốc của hàn gắn. Nó giúp chúng ta đi tìm những binh sĩ mất tích và đem hài cốt họ về. Nó giúp chúng ta tháo gỡ bom mìn chưa nổ, để không có đứa trẻ nào bị mất chân chỉ vì chơi đùa bên ngoài. Chúng tôi cũng sẽ tiếp tục giúp đỡ người khuyết tật Việt Nam, trong đó có trẻ em, cũng như giúp tháo bỏ chất độc da cam, để Việt Nam cải tạo lại đất. Chúng tôi hãnh diện với công việc chúng ta làm chung ở Đà Nẵng, và sẽ tiếp tục hỗ trợ nỗ lực này của các bạn tại Biên Hòa.
Đừng quên rằng quá trình hòa giải giữa hai nước đã được bắt đầu từ những cựu chiến binh, từng đối đầu nhau trên chiến trường. Hãy nghĩ đến Thượng nghị sĩ John McCain, một tù nhân chiến tranh nhiều năm đã gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người nói rằng hai nước nên là bạn không nên là thù nữa. Hãy nghĩ đến tất cả các cựu chiến binh, Việt và Hoa Kỳ, đã giúp chúng ta hàn gắn và xây dựng mối quan hệ mới. Một số ít đã làm rất nhiều cho nỗ lực này, như cựu sĩ quan Hải quân, và bây giờ là Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, John Kerry, có mặt ngày hôm nay. Thay mặt tất cả mọi người, xin cám ơn ông cho các nỗ lực phi thường này.
Vì các cựu chiến binh ấy đã chỉ đường cho chúng ta, vì những người lính đã can đảm đi tìm hòa bình, dân tộc hai nước bây giờ gần gũi nhau hơn bao giờ hết. Giao thương tăng cao. Sinh viên và học giả chúng ta cùng nhau học hỏi. Chúng tôi chào đón nhiều sinh viên Việt Nam đến Hoa Kỳ du học hơn bất cứ quốc gia nào khác tại Đông Nam Á. Mỗi năm du khách Hoa Kỳ đến Việt Nam lại tăng lên, trong đó có những người du lịch balô trẻ, đến Hà Nội 36 phố phường và đến Phố cổ Hội An, kinh đô ở Huế. Cả người Việt và người Hoa Kỳ đều có thể cảm được lời bài hát của nhạc sĩ Văn Cao: "Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người". 
Là Tổng thống, tôi tiếp tục xây dựng trên sự tiến triển đó. Với quan hệ đối tác toàn diện mới, chính phủ hai nước đang hợp tác chặt chẽ hơn bao giờ hết. Với chuyến viếng thăm này, chúng ta đặt quan hệ hai nước trên nền tảng vững chắc hơn cho các thập niên tới. Lương duyên hai nước bắt đầu từ Tổng thống Thomas Jefferson hai thế kỷ trước đến giờ phút này đã được trọn vẹn. Đã mất nhiều năm và đòi hỏi nhiều nỗ lực. Nhưng chúng ta có thể nói một điều không ai ngờ trước đây: Ngày nay, Việt Nam và Hoa Kỳ là đối tác.
Tôi tin rằng kinh nghiệm của hai nước cũng là bài học cho thế giới. Trong bối cảnh thế giới đang có nhiều xung đột và đối đầu tưởng như không dứt, chúng ta đã chứng minh trái tim có thể thay đổi, tương lai sẽ khác nếu ta từ bỏ sự giam hãm của quá khứ. Chúng ta đã cho thấy hòa bình tốt đẹp hơn chiến tranh như thế nào. Chúng ta đã cho thấy tiến bộ và phẩm giá con người được thúc đẩy bởi hợp tác chứ không phải xung đột. Đó là điều mà Việt Nam và Hoa Kỳ có thể cho thế giới thấy.
Sự đối tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được đặt trên những nguyên tắc căn bản. Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, không nước nào có thể áp đặt hoặc quyết định số phận thay cho Việt Nam. Hoa Kỳ rất quan tâm đến sự thành công của Việt Nam. Tuy thế quan hệ hợp tác của chúng ta vẫn ở giai đoạn tiên khởi. Với thời gian còn lại của tôi, tôi muốn chia sẻ một tầm nhìn mà tôi tin rằng sẽ điều hướng chúng ta trong các thập niên tới.
Đầu tiên, hãy cùng làm việc để đem lại cơ hội và thịnh vượng thực sự cho nhân dân hai nước. Chúng ta biết bí quyết để thành công về kinh tế trong thế kỷ 21. Trong nền kinh tế toàn cầu, đầu tư và giao thương sẽ đến bất cứ nơi nào có pháp quyền, vì không ai muốn phải hối lộ để được thành lập công ty, Không ai muốn bán hàng hóa hoặc đi học nếu họ không biết họ sẽ bị đối xử ra sao. Trong nền kinh tế tri thức, công ăn việc làm sẽ vào tay những ai có được tư duy độc lập, biết trao đổi tư tưởng, và có óc sáng tạo. Đối tác kinh tế thật sự không phải là nước này khai thác tài nguyên nước kia, mà là đầu tư vào nguồn tài nguyên lớn nhất, đó là con người với kỹ năng và tài năng, dù sống ở thành phố lớn hay ngôi làng nhỏ. Đó là hình thức đối tác mà Hoa Kỳ mong muốn. 
Như tôi đã tuyên bố hôm qua, Đội Quân Hòa Bình (Peace Corps) sẽ đến Việt Nam lần đầu tiên, tập trung vào việc dạy Anh ngữ. Một thế hệ sau khi những người trẻ Hoa Kỳ đến đây chiến đấu, nay có một thế hệ người Hoa Kỳ mới đến đây để dạy tiếng Anh và thắt chặt tình hữu nghị hai nước. Một số công ty công nghệ và đại học hàng đầu của Hoa Kỳ sẽ hợp tác với các đại học Việt Nam để đẩy mạnh huấn luyện về khoa học, công nghệ, công trình toán và y khoa. Vì dù tiếp tục mở rộng cửa đón sinh viên Việt Nam đến Hoa Kỳ du học, chúng tôi tin rằng giới trẻ xứng đáng có được một học vấn với chất lượng quốc tế ngay tại Việt Nam.
Đó là một trong những lý do mà chúng tôi rất phấn khởi để thông báo là vào mùa thu này, Đại Học Fulbright Việt Nam sẽ khai giảng tại Thành phố HCM -- trường đại học độc lập, bất vụ lợi đầu tiên của Việt Nam -- nơi sẽ có hoàn toàn tự do học thuật và học bổng cho những người cần nó. Sinh viên, học giả, nghiên cứu sinh sẽ tập trung vào các lãnh vực chính sách công, quản trị, kinh doanh, kỹ thuật, tin học, và các ngành nhân văn -- mọi thứ từ thơ Nguyễn Du đến triết lý Phan Chu Trinh, đến toán học của Ngô Bảo Châu.
Chúng tôi cũng sẽ duy trì hợp tác với giới trẻ và các doanh nhân, vì chúng tôi tin rằng khi có thể tiếp cận công nghệ, kỹ năng và vốn cần thiết, không gì có thể ngăn được bạn -- kể cả đối với giới phụ nữ tài năng của Việt Nam. Chúng tôi tin rằng bình đẳng phái tính là một nguyên lý quan trọng. Từ thời Hai Bà Trưng đến nay, những người phụ nữ giỏi, tự tin luôn góp phần đưa Việt Nam đi lên. Bằng chứng rất rõ ràng -- tôi nói điều này bất cứ nơi nào tôi đến trên thế giới -- gia đình, cộng đồng, và quốc gia sẽ thịnh vượng hơn khi phụ nữ và các em gái có cơ hội bình đẳng để thành đạt trong trường học, trong công việc và chính quyền. Điều đó đúng khắp mọi nơi, và cũng đúng ngay tại Việt Nam.
Chúng tôi cũng sẽ giúp Việt Nam phát huy tiềm lực của nền kinh tế thông qua Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP. TPP sẽ giúp Việt Nam bán nhiều hàng hóa hơn ra thế giới, đồng thời thu hút vốn đầu tư mới. Nhưng TPP đòi hỏi sự cải tổ để bảo vệ người lao động, pháp quyền và sở hữu trí tuệ. Hoa Kỳ sẵn sàng giúp Việt Nam thực hiện các cam kết. Tôi muốn các bạn biết là trong vai trò Tổng Thống Hoa Kỳ, tôi ủng hộ TPP mạnh mẽ vì các bạn có thể mua thêm sản phẩm làm tại Hoa Kỳ.
Hơn thế, tôi ủng hộ TPP vì những lợi ích chiến lược của nó. Việt Nam sẽ ít phụ thuộc vào bất cứ một đối tác giao thương nào và mở rộng quan hệ với nhiều đối tác hơn, kể cả Hoa Kỳ.
TPP sẽ tăng cường hợp tác trong khu vực. TPP giúp giải quyết vấn đề cách biệt giàu nghèo, thúc đẩy nhân quyền, với lương bổng cao hơn và điều kiện làm việc an toàn hơn. Lần đầu tiên tại Việt Nam sẽ có quyền thành lập công đoàn độc lập và những nghiêm cấm trong việc cưỡng bức lao động và lao động trẻ em. TPP có những điều khoản bảo vệ môi trường khắt khe nhất và các chuẩn mực chống tham nhũng mạnh mẽ nhất trong các hiệp ước giao thương trong lịch sử. Đó là tương lai mà TPP hứa hẹn cho tất cả chúng ta -- Hoa Kỳ, Việt Nam, và các quốc giá ký kết khác -- bởi vì tất cả phải tuân theo quy định mà chúng ta đã cùng định ra. Đó là tương lai dành cho tất cả chúng ta. Do đó chúng ta phải hoàn thành cho được -- vì mục đích thịnh vượng kinh tế và quốc phòng.
Điều này đưa đến lãnh vực thứ hai mà chúng ta có để hợp tác, đó là bảo đảm an ninh hỗ tương. Trong chuyến thăm này, chúng ta đồng ý đẩy mạnh hơn hợp tác và xây dựng niềm tin giữa hai quân đội. Chúng tôi tiếp tục huấn luyện đào tạo và cung cấp thiết bị cho cảnh sát biển Việt Nam để giúp nâng cao năng lực trên mặt biển. Chúng ta sẽ hợp tác để cứu trợ nhân đạo khi có thiên tai. Với tuyên bố hôm qua gỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương, Việt Nam có thể có được những thiết bị quân sự cần thiết cho quốc phòng. Và Hoa Kỳ cho thấy rõ cam kết bình thường hóa hoàn toàn quan hệ với Việt Nam.
Nói rộng ra, thế kỷ 21 đã dạy cho chúng ta - cả Hoa Kỳ và Việt Nam - một điều là trật tự thế giới mà mối an ninh hỗ tương của chúng ta phụ thuộc vào phải đặt nền tảng trên một số nguyên tắc và thông lệ nhất định. Các quốc gia đều có chủ quyền, và dù lớn hay nhỏ, chủ quyền quốc gia đó phải được tôn trọng, và lãnh thổ không thể bị xâm phạm. Nước lớn không nên bắt nạt nước nhỏ. Tranh chấp nên được giải quyết ôn hòa. Và các định chế khu vực, như ASEAN và Thượng Đỉnh Đông Á, phải được đẩy mạnh. Đó là điều tôi tin tưởng. Đó là điều Hoa Kỳ tin tưởng. Đó là hình thức đối tác mà Hoa Kỳ mong muốn cho khu vực. Tôi mong được thúc đẩy tinh thần tôn trọng và hòa giải này khi tôi đến thăm Lào lần đầu tiên vào cuối năm nay.
Tại Biển Đông, Hoa Kỳ không phải là một trong các nước tranh chấp chủ quyền. Nhưng chúng tôi sẽ sát cánh với các đối tác để duy trì những nguyên tắc cơ bản, như tự do hải hành, tự do không hành, tự do giao thương không bị ngăn cản, và giải quyết ôn hòa các tranh chấp bằng các phương tiện luật pháp quốc tế. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay, lái tàu và hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi ủng hộ quyền đó của các quốc gia khác.
Trong khi chúng ta hợp tác chặt chẽ hơn trong những lãnh vực tôi vừa mô tả, quan hệ đối tác của chúng ta còn có yếu tố thứ ba - giải quyết những vấn đề mà chính quyền hai bên còn bất đồng, trong đó có vấn đề nhân quyền. Tôi không nói riêng về Việt Nam, vì không có quốc gia nào hoàn hảo. Hai thế kỷ qua, chính Hoa Kỳ cũng đang cố gắng để đạt được những lý tưởng từ thời lập quốc. Chúng tôi vẫn đối phó với những thiếu sót của mình -- quá nhiều tiền chi phối chính trị, kỳ thị chủng tộc trong hệ thống tư pháp, phụ nữ không được trả lương ngang với người nam cho cùng một công việc. Chúng tôi vẫn có những vấn đề. Và chúng tôi cũng không tránh khỏi bị chỉ trích, tôi xin chắc với các bạn. Tôi được nghe mỗi ngày. Nhưng việc soi xét, tranh luận mở rộng, đối diện với sự bất toàn của chúng tôi, và cho phép mọi người có tiếng nói đã giúp chúng tôi mạnh hơn, thịnh vượng hơn, công bằng hơn.
Tôi đã nói rồi – Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt thể chế của chúng tôi lên Việt Nam. Những quyền mà tôi đề cập đến không phải là những giá trị của Hoa Kỳ; tôi tin rằng chúng là những giá trị phổ quát được nêu trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng cũng được nêu trong hiến pháp Việt Nam, có ghi rằng “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, quyền hội họp, quyền tụ tập và quyền biểu tình.” Những điều này nằm trong hiến pháp Việt Nam. Thật ra, vấn đề nằm ở chỗ tất cả chúng ta, mỗi quốc gia, tìm cách áp dụng những nguyên tắc này, bảo đảm những người trong vị trí cầm quyền tuân theo các lý tưởng đó.
Trong những năm gần đây, Việt Nam có một số tiến bộ. Việt Nam có nỗ lực điều chỉnh luật lệ để đi sát với hiến pháp và chuẩn mực quốc tế. Theo các luật mới thông qua gần đây, chính quyền sẽ tiết lộ ngân sách và quần chúng có quyền tiếp cập thông tin nhiều hơn. Và như tôi đã nói, Việt Nam đã cam kết cải tổ về kinh tế và lao động theo yêu cầu của TPP. Thành ra đây là những bước tích cực. Và cuối cùng, tương lai Việt Nam sẽ được chính người Việt quyết định. Mỗi quốc gia tự chọn lấy con đường minh đi, và hai quốc gia chúng ta có truyền thống, văn khóa, hệ thống chính trị khác nhau. Nhưng là một người bạn của Việt Nam, cho phép tôi được chia sẻ quan điểm của tôi -- tại sao tôi tin rằng các quốc gia sẽ thành công hơn khi các quyền phổ quát được tôn trọng.
Khi có tự do biểu đạt và tự do ngôn luận, và khi người dân có thể chia sẻ tư tưởng và tiếp cận Internet và mạng xã hội mà không bị giới hạn, điều đó sẽ thúc đẩy sự sáng tạo mà kinh tế cần đến. Đó là nơi những sáng kiến mới được nảy ra. Đó là cách mà Facebook khởi đầu. Đó là cách mà một số công ty lớn nhất của chúng tôi khởi đầu -- vì có người có một ý kiến mới. Ý kiến đó khác biệt. Và họ có thể chia sẻ ý kiến đó. Khi có tự do báo chí -- khi mà ký giả và blogger có thể rọi đèn vào những bất công hay sai phạm -- điều đó sẽ buộc giới chức có trách nhiệm và giúp quần chúng có niềm tin vào hệ thống. Khi các ứng cử viên có thể traah cử và vận động bầu cử một cách tự do, và cử tri có thể chọn người lãnh đạo trong một cuộc bầu cử tự do và công bằng, điều đó sẽ làm cho quốc gia ổn định, vì công dân biết là tiếng nói của họ có trọng lượng và thay đổi ôn hòa có thể xảy ra. Và điều đó sẽ đem thêm người mới vào trong hệ thống. Khi có tự do tôn giáo, nó không những cho phép người dân bày tỏ tình thương và lòng bác ái, là trọng tâm của tất cả các tôn giáo lớn, mà còn cho phép các nhóm tôn giáo phục vụ cộng đồng qua trường học, bệnh viện, chăm sóc cho người nghèo khó, khốn cùng. Và khi có tự do hội họp -- khi công dân được tự do lập hội trong một xã hội dân sự -- thì sẽ gúp quốc gia giải quyết những vấn nạn mà chính quyền đôi khi không thể tự mình giải quyết. Do đó quan điểm của tôi là tôn trọng các quyền này không phải là mối đe doạ cho sự ổn định, mà thật ra củng cố ổn định và là nền tảng cho tiến bộ.
Cũng chính vì ước vọng cho những quyền tự do này mà người dân khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam, đã đánh đổ chế độ thực dân. Và tôi tin rằng tôn trọng những quyền tự do này là sự bày tỏ đầy đủ nhất của tính độc lập mà mọi người trân quý, kể cả tại đây, một quốc gia tuyên bố là “của dân, vì dân, và cho dân”.
Việt Nam sẽ thực hiện khác với Hoa Kỳ. Và mỗi chúng ta sẽ làm khác với các quốc gia trên thế giới. Nhưng có những nguyên tắc cơ bản mà tôi cho rằng tất cả chúng ta phải nỗ lực thực hiện và cải thiện. Tôi nói điều này trong vị trí của một người sắp sửa rời nhiệm sở, do đó tôi có được lợi ích của tám năm để nghiền ngẫm cách thức hoạt động của các hệ thống chính trị và tương tác với các quốc gia khắp thế giới mà ngay chính họ đang cũng nỗ lực cải thiện. 
Cuối cùng, tôi nghĩ quan hệ đối tác sẽ giúp chúng ta đối phó với những thách thức toàn cầu mà không nước nào giải quyết được một mình. Nếu chúng ta muốn bảo đảm sức khoẻ của người dân và nét đẹp của quả địa cầu thì phát triển cần phải bền vững. Những kỳ quan thiên nhiên như vịnh Hạ Long và hang Sơn Đoòng phải được bảo tồn cho các thế hệ sau. Mực nước biển tăng dần sẽ đe dọa bờ biển và sông ngòi mà nhiều người đang phụ thuộc. Và trong việc hợp tác đối phó với biến đổi khí hậu, chúng ta cần thực hiện những cam kết đã ký tại Paris, chúng ta cần giúp nông dân, dân làng, và ngư dân thích nghi và đem năng lượng sạch đến đồng bằng sông Cửu Long -- một vựa lúa của thế giới cần thiết để nuôi sống các thế hệ tương lai. 
Chúng ta có thể cứu được biết bao sinh mạng bên ngoài biên giới của mình. Bằng các giúp đỡ những đất nước khác củng cố hệ thống y tế của họ, chẳng hạn, chúng ta có thể ngăn chặn những vụ bùng phát bệnh dịch trở thành những trận dịch đe dọa tất cả chúng ta. Và trong khi Việt Nam cam kết sâu thêm với Liên Hiệp Quốc về nghĩa vụ gìn giữ hòa bình, Hoa Kỳ hãnh diện vì đã giúp huấn luyện lực lượng gìn giữ hòa bình của các bạn. Và đó thật là một điều đáng ghi nhận -- hai quốc gia chúng ta từng đánh nhau nhưng giờ đây sát cánh giúp đỡ những quốc gia khác cùng đạt được hòa bình. Như thế ngoài quan hệ song phương, mối quan hệ đối tác của chúng ta cũng cho phép chúng ta giúp định hình môi trường quốc tế một cách tích cực.
Viễn cảnh mà tôi mô tả hôm nay sẽ không hình thành qua đêm, và cũng không chắc chắn sẽ xảy ra. Sẽ có vấp váp và thất bại trong tiến trình đó. Sẽ có những lúc xảy ra hiểu lầm. Sẽ cần đến nỗ lực bền bỉ và đối thoại chân thành trong đó cả hai bên đều tiếp tục thay đổi. Nhưng nếu xét đến lịch sử và những rào cản mà chúng ta đã vượt qua, hôm nay đứng trước các bạn tôi rất lạc quan về tương lai chung của chúng ta. Và tôi luôn luôn đặt niềm tin của mình nơi tình bạn và những khát vọng chung của hai dân tộc chúng ta.
Tôi nghĩ đến những người Hoa Kỳ và Việt Nam đã băng qua một đại dương rộng lớn -- một số người đang đoàn tụ với gia đình lần đầu tiên sau nhiều thập niên -- và những người, như Trịnh Công Sơn đã nói trong ca khúc của mình, nối vòng tay lớn, và đang mở rộng lòng mình và nhìn thấy nhân tính chung của chúng ta.
Tôi nghĩ đến tất cả những người Hoa Kỳ gốc Việt thành công trong mọi lãnh vực -- bác sĩ, ký giả, thẩm phán, công chức. Một trong số đó, sinh đẻ tại Việt Nam, đã viết thư cho tôi bảo rằng, “Nhờ ơn Thượng Đế, tôi đã được sống giấc mơ Hoa Kỳ … Tôi rất hãnh diện làm người Hoa Kỳ nhưng cũng rất hãnh diện làm người Việt.” Và ngày hôm nay, người đó có mặt nơi đây, trở lại quê cha đất tổ, vì “ước vọng cá nhân” của ông là muốn “cải thiện cuộc sống của tất cả người dân Việt Nam.”
Tôi nghĩ đến một thế hệ người Việt mới -- rất nhiều người, rất nhiều người trẻ có mặt nơi đây -- sẵn sàng tạo dấu ấn của mình với đời. Tôi muốn nói với tất cả các bạn trẻ đang lắng nghe: Tài năng, động lực, ước mơ của bạn -- chính trong những thứ đó, Việt Nam có tất cả những gì đất nước này cần để vươn lên. Các bạn nắm trong tay vận mệnh của mình. Đây là thời khắc của các bạn. Và trong khi các bạn theo đuổi tương lai mà các bạn mong muốn, tôi muốn các bạn biết rằng Hoa Kỳ sẽ ở ngay bên cạnh các bạn như một đối tác và một người bạn.
Và nhiều năm sau này, khi có thêm nhiều người Việt và Hoa Kỳ hơn nữa cùng nhau học hỏi; cùng nhau sáng tạo và kinh doanh; cùng nhau bảo vệ an ninh chung, và xiển dương quyền con người, bảo vệ quả địa cầu của chúng ta -- tôi mong các bạn nhớ về khoảnh khắc này để tìm nguồn hy vọng từ viễn cảnh tôi đã gởi gấm hôm nay . Hay là, liệu tôi có thể nói một cách khác, bằng chính vầng thơ Kiều mà chắc hẳn các bạn quen thuộc: 

Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi.

Cám ơn các bạn.
Cám ơn các bạn rất nhiều.
Cám ơn Việt Nam. Cám ơn.

TỔNG THỐNG HOA KỲ, BARACK OBAMA
Trung Tâm Hội Nghị Việt Nam
Hà Nội 24/3/2016
REMARKS BY PRESIDENT OBAMA IN ADDRESS TO THE PEOPLE OF VIETNAM
National Convention Center - Hanoi, Vietnam
PRESIDENT OBAMA:  Xin chào!  (Applause.)  Xin chào Vietnam!  (Applause.)  Thank you.  Thank you so much.  To the government and the people of Vietnam, thank you for this very warm welcome and the hospitality that you have shown to me on this visit.  And thank all of you for being here today. (Applause.) We have Vietnamese from across this great country, including so many young people who represent the dynamism, and the talent and the hope of Vietnam. 
On this visit, my heart has been touched by the kindness for which the Vietnamese people are known.  In the many people who have been lining the streets, smiling and waving, I feel the friendship between our peoples.  Last night, I visited the Old Quarter here in Hanoi and enjoyed some outstanding Vietnamese food.  I tried some Bún Chả.  (Applause.)  Drank some bia Ha Noi.  But I have to say, the busy streets of this city, I’ve never seen so many motorbikes in my life.  (Laughter.)  So I haven’t had to try to cross the street so far, but maybe when I come back and visit you can tell me how. 
I am not the first American President to come to Vietnam in recent times.  But I am the first, like so many of you, who came of age after the war between our countries.  When the last U.S. forces left Vietnam, I was just 13 years old.  So my first exposure to Vietnam and the Vietnamese people came when I was growing up in Hawaii, with its proud Vietnamese American community there.
At the same time, many people in this country are much younger than me.  Like my two daughters, many of you have lived your whole lives knowing only one thing -- and that is peace and normalized relations between Vietnam and the United States.  So I come here mindful of the past, mindful of our difficult history, but focused on the future -- the prosperity, security and human dignity that we can advance together.
I also come here with a deep respect for Vietnam’s ancient heritage.  For millennia, farmers have tended these lands -- a history revealed in the Dong Son drums.  At this bend in the river, Hanoi has endured for more than a thousand years.  The world came to treasure Vietnamese silks and paintings, and a great Temple of Literature stands as a testament to your pursuit of knowledge.  And yet, over the centuries, your fate was too often dictated by others.  Your beloved land was not always your own.  But like bamboo, the unbroken spirit of the Vietnamese people was captured by Ly Thuong Kiet -- “the Southern emperor rules the Southern land.  Our destiny is writ in Heaven’s Book.”
Today, we also remember the longer history between Vietnamese and Americans that is too often overlooked.  More than 200 years ago, when our Founding Father, Thomas Jefferson, sought rice for his farm, he looked to the rice of Vietnam, which he said had “the reputation of being whitest to the eye, best flavored to the taste, and most productive.”  Soon after, American trade ships arrived in your ports seeking commerce.
During the Second World War, Americans came here to support your struggle against occupation.  When American pilots were shot down, the Vietnamese people helped rescue them.  And on the day that Vietnam declared its independence, crowds took to the streets of this city, and Ho Chi Minh evoked the American Declaration of Independence.  He said, “All people are created equal.  The Creator has endowed them with inviolable rights.  Among these rights are the right to life, the right to liberty, and the right to the pursuit of happiness.”
In another time, the profession of these shared ideals and our common story of throwing off colonialism might have brought us closer together sooner.  But instead, Cold War rivalries and fears of communism pulled us into conflict.  Like other conflicts throughout human history, we learned once more a bitter truth -- that war, no matter what our intentions may be, brings suffering and tragedy.
At your war memorial not far from here, and with family altars across this country, you remember some 3 million Vietnamese, soldiers and civilians, on both sides, who lost their lives.  At our memorial wall in Washington, we can touch the names of 58,315 Americans who gave their lives in the conflict.  In both our countries, our veterans and families of the fallen still ache for the friends and loved ones that they lost.  Just as we learned in America that, even if we disagree about a war, we must always honor those who serve and welcome them home with the respect they deserve, we can join together today, Vietnamese and Americans, and acknowledge the pain and the sacrifices on both sides.
More recently, over the past two decades, Vietnam has achieved enormous progress, and today the world can see the strides that you have made.  With economic reforms and trade agreements, including with the United States, you have entered the global economy, selling your goods around the world.  More foreign investment is coming in.  And with one of the fastest-growing economies in Asia, Vietnam has moved up to become a middle-income nation.
We see Vietnam’s progress in the skyscrapers and high-rises of Hanoi and Ho Chi Minh City, and new shopping malls and urban centers.  We see it in the satellites Vietnam puts into space and a new generation that is online, launching startups and running new ventures.  We see it in the tens of millions of Vietnamese connected on Facebook and Instagram.  And you’re not just posting selfies -- although I hear you do that a lot -- (laughter) –
and so far, there have been a number of people who have already asked me for selfies.  You’re also raising your voices for causes that you care about, like saving the old trees of Hanoi.
So all this dynamism has delivered real progress in people’s lives.  Here in Vietnam, you’ve dramatically reduced extreme poverty, you've boosted family incomes and lifted millions into a fast-growing middle class.  Hunger, disease, child and maternal mortality are all down.  The number of people with clean drinking water and electricity, the number of boys and girls in school, and your literacy rate -- these are all up.  This is extraordinary progress.  This is what you have been able to achieve in a very short time.
And as Vietnam has transformed, so has the relationship between our two nations.  We learned a lesson taught by the venerable Thich Nhat Hanh, who said, “In true dialogue, both sides are willing to change.”  In this way, the very war that had divided us became a source for healing.  It allowed us to account for the missing and finally bring them home.  It allowed us to help remove landmines and unexploded bombs, because no child should ever lose a leg just playing outside.  Even as we continue to assist Vietnamese with disabilities, including children, we are also continuing to help remove Agent Orange -- dioxin -- so that Vietnam can reclaim more of your land.  We're proud of our work together in Danang, and we look forward to supporting your efforts in Bien Hoa.
Let’s also not forget that the reconciliation between our countries was led by our veterans who once faced each other in battle.  Think of Senator John McCain, who was held for years here as a prisoner of war, meeting General Giap, who said our countries should not be enemies but friends.  Think of all the veterans, Vietnamese and American, who have helped us heal and build new ties.  Few have done more in this regard over the years than former Navy lieutenant, and now Secretary of State of the United States, John Kerry, who is here today.  And on behalf of all of us, John, we thank you for your extraordinary effort.  (Applause.)
Because our veterans showed us the way, because warriors had the courage to pursue peace, our peoples are now closer than ever before.  Our trade has surged.  Our students and scholars learn together.  We welcome more Vietnamese students to America than from any other country in Southeast Asia.  And every year, you welcome more and more American tourists, including young Americans with their backpacks, to Hanoi’s 36 Streets and the shops of Hoi An, and the imperial city of Hue.  As Vietnamese and Americans, we can all relate to those words written by Van Cao -- “From now, we know each other’s homeland; from now, we learn to feel for each other.”
As President, I’ve built on this progress.  With our new Comprehensive Partnership, our governments are working more closely together than ever before.  And with this visit, we’ve put our relationship on a firmer footing for decades to come.  In a sense, the long story between our two nations that began with Thomas Jefferson more than two centuries ago has now come full circle.  It has taken many years and required great effort.  But now we can say something that was once unimaginable:  Today, Vietnam and the United States are partners.
And I believe our experience holds lessons for the world.  At a time when many conflicts seem intractable, seem as if they will never end, we have shown that hearts can change and that a different future is possible when we refuse to be prisoners of the past.  We've shown how peace can be better than war.  We've shown that progress and human dignity is best advanced by cooperation and not conflict.  That’s what Vietnam and America can show the world. 
Now, America’s new partnership with Vietnam is rooted in some basic truths.  Vietnam is an independent, sovereign nation, and no other nation can impose its will on you or decide your destiny.  (Applause.)  Now, the United States has an interest here.  We have an interest in Vietnam’s success.  But our Comprehensive Partnership is still in its early stages.  And with the time I have left, I want to share with you the vision that I believe can guide us in the decades ahead.
First, let’s work together to create real opportunity and prosperity for all of our people.  We know the ingredients for economic success in the 21st century.  In our global economy, investment and trade flows to wherever there is rule of law, because no one wants to pay a bribe to start a business.  Nobody wants to sell their goods or go to school if they don’t know how they're going to be treated.  In knowledge-based economies, jobs go to where people have the freedom to think for themselves and exchange ideas and to innovate.  And real economic partnerships are not just about one country extracting resources from another.  They’re about investing in our greatest resource, which is our people and their skills and their talents, whether you live in a big city or a rural village.  And that’s the kind of partnership that America offers.
As I announced yesterday, the Peace Corps will come to Vietnam for the first time, with a focus on teaching English.  A generation after young Americans came here to fight, a new generation of Americans are going to come here to teach and build and deepen the friendship between us.  (Applause.)  Some of America’s leading technology companies and academic institutions are joining Vietnamese universities to strengthen training in science, technology, engineering, mathematics, and medicine.  Because even as we keep welcoming more Vietnamese students to America, we also believe that young people deserve a world-class education right here in Vietnam. 
It's one of the reasons why we're very excited that this fall, the new Fulbright University Vietnam will open in Ho Chi Minh City -- this nation’s first independent, non-profit university -- where there will be full academic freedom and scholarships for those in need.  (Applause.)  Students, scholars, researchers will focus on public policy and management and business; on engineering and computer science; and liberal arts -- everything from the poetry of Nguyen Du, to the philosophy of Phan Chu Trinh, to the mathematics of Ngo Bao Chau. 
And we're going to keep partnering with young people and entrepreneurs, because we believe that if you can just access the skills and technology and capital you need, then nothing can stand in your way -- and that includes, by the way, the talented women of Vietnam.  (Applause.)  We think gender equality is an important principle.  From the Trung Sisters to today, strong, confident women have always helped move Vietnam forward.  The evidence is clear -- I say this wherever I go around the world -- families, communities and countries are more prosperous when girls and women have an equal opportunity to succeed in school and at work and in government.  That's true everywhere, and it's true here in Vietnam.  (Applause.)
We’ll keep working to unleash the full potential of your economy with the Trans-Pacific Partnership.  Here in Vietnam, TPP will let you sell more of your products to the world and it will attract new investment.  TPP will require reforms to protect workers and rule of law and intellectual property.  And the United States is ready to assist Vietnam as it works to fully implement its commitments.  I want you to know that, as President of the United States, I strongly support TPP because you'll also be able to buy more of our goods, “Made in America.” 
Moreover, I support TPP because of its important strategic benefits.  Vietnam will be less dependent on any one trading partner and enjoy broader ties with more partners, including the United States.  (Applause.)  And TPP will reinforce regional cooperation.  It will help address economic inequality and will advance human rights, with higher wages and safer working conditions.  For the first time here in Vietnam, the right to form independent labor unions and prohibitions against forced labor and child labor.  And it has the strongest environmental protections and the strongest anti-corruption standards of any trade agreement in history.  That’s the future TPP offers for all of us, because all of us -- the United States, Vietnam, and the other signatories -- will have to abide by these rules that we have shaped together.  That's the future that is available to all of us.  So we now have to get it done -- for the sake of our economic prosperity and our national security.
This brings me to the second area where we can work together, and that is ensuring our mutual security.  With this visit, we have agreed to elevate our security cooperation and build more trust between our men and women in uniform.  We’ll continue to offer training and equipment to your Coast Guard to enhance Vietnam’s maritime capabilities.  We will partner to deliver humanitarian aid in times of disaster.  With the announcement I made yesterday to fully lift the ban on defense sales, Vietnam will have greater access to the military equipment you need to ensure your security.  And the United States is demonstrating our commitment to fully normalize our relationship with Vietnam.  (Applause.)
More broadly, the 20th century has taught all of us -- including the United States and Vietnam -- that the international order upon which our mutual security depends is rooted in certain rules and norms.  Nations are sovereign, and no matter how large or small a nation may be, its sovereignty should be respected, and it territory should not be violated.  Big nations should not bully smaller ones.  Disputes should be resolved peacefully.  (Applause.)  And regional institutions, like ASEAN and the East Asia Summit, should continue to be strengthened.
That’s what I believe.  That's what the United States believes.  That’s the kind of partnership America offers this region.  I look forward to advancing this spirit of respect and reconciliation later this year when I become the first U.S. President to visit Laos.
In the South China Sea, the United States is not a claimant in current disputes.  But we will stand with partners in upholding core principles, like freedom of navigation and overflight, and lawful commerce that is not impeded, and the peaceful resolution of disputes, through legal means, in accordance with international law.  As we go forward, the United States will continue to fly, sail and operate wherever international law allows, and we will support the right of all countries to do the same.  (Applause.)
Even as we cooperate more closely in the areas I’ve described, our partnership includes a third element -- addressing areas where our governments disagree, including on human rights.  I say this not to single out Vietnam.  No nation is perfect.  Two centuries on, the United States is still striving to live up to our founding ideals.  We still deal with our shortcomings -- too much money in our politics, and rising economic inequality, racial bias in our criminal justice system, women still not being paid as much as men doing the same job.  We still have problems.  And we're not immune from criticism, I promise you.  I hear it every day.  But that scrutiny, that open debate, confronting our imperfections, and allowing everybody to have their say has helped us grow stronger and more prosperous and more just.
I’ve said this before -- the United States does not seek to impose our form of government on Vietnam.  The rights I speak of I believe are not American values; I think they're universal values written into the Universal Declaration of Human Rights.  They're written into the Vietnamese constitution, which states that “citizens have the right to freedom of speech and freedom of the press, and have the right of access to information, the right to assembly, the right to association, and the right to demonstrate.”  That’s in the Vietnamese constitution.  (Applause.)  So really, this is an issue about all of us, each country, trying to consistently apply these principles, making sure that we -- those of us in government -- are being true to these ideals.
In recent years, Vietnam has made some progress.  Vietnam has committed to bringing its laws in line with its new constitution and with international norms.  Under recently passed laws, the government will disclose more of its budget and the public will have the right to access more information.  And, as I said, Vietnam has committed to economic and labor reforms under the TPP.   So these are all positive steps.  And ultimately, the future of Vietnam will be decided by the people of Vietnam.  Every country will chart its own path, and our two nations have different traditions and different political systems and different cultures.  But as a friend of Vietnam, allow me to share my view -- why I believe nations are more successful when universal rights are upheld.
When there is freedom of expression and freedom of speech, and when people can share ideas and access the Internet and social media without restriction, that fuels the innovation economies need to thrive.  That's where new ideas happen.  That's how a Facebook starts.  That's how some of our greatest companies began -- because somebody had a new idea.  It was different.  And they were able to share it.  When there’s freedom of the press -- when journalists and bloggers are able to shine a light on injustice or abuse -- that holds officials accountable and builds public confidence that the system works.  When candidates can run for office and campaign freely, and voters can choose their own leaders in free and fair elections, it makes the countries more stable, because citizens know that their voices count and that peaceful change is possible.  And it brings new people into the system. 
When there is freedom of religion, it not only allows people to fully express the love and compassion that are at the heart of all great religions, but it allows faith groups to serve their communities through schools and hospitals, and care for the poor and the vulnerable.  And when there is freedom of assembly -- when citizens are free to organize in civil society -- then countries can better address challenges that government sometimes cannot solve by itself.  So it is my view that upholding these rights is not a threat to stability, but actually reinforces stability and is the foundation of progress.
After all, it was a yearning for these rights that inspired people around the world, including Vietnam, to throw off colonialism.  And I believe that upholding these rights is the fullest expression of the independence that so many cherish, including here, in a nation that proclaims itself to be “of the People, by the People and for the People.”
Vietnam will do it differently than the United States does.  And each of us will do it differently from many other countries around the world.  But there are these basic principles that I think we all have to try to work on and improve.  And I said this as somebody who's about to leave office, so I have the benefit of almost eight years now of reflecting on how our system has worked and interacting with countries around the world who are constantly trying to improve their systems, as well.
Finally, our partnership I think can meet global challenges that no nation can solve by itself.  If we’re going to ensure the health of our people and the beauty of our planet, then development has to be sustainable.  Natural wonders like Ha Long Bay and Son Doong Cave have to be preserved for our children and our grandchildren.  Rising seas threaten the coasts and waterways on which so many Vietnamese depend.  And so as partners in the fight against climate change, we need to fulfill the commitments we made in Paris, we need to help farmers and villages and people who depend on fishing to adapt and to bring more clean energy to places like the Mekong Delta -- a rice bowl of the world that we need to feed future generations.
And we can save lives beyond our borders.  By helping other countries strengthen, for example, their health systems, we can prevent outbreaks of disease from becoming epidemics that threaten all of us.  And as Vietnam deepens its commitment to U.N. peacekeeping, the United States is proud to help train your peacekeepers.  And what a truly remarkable thing that is -- our two nations that once fought each other now standing together and helping others achieve peace, as well.  So in addition to our bilateral relationship, our partnership also allows us to help shape the international environment in ways that are positive.
Now, fully realizing the vision that I’ve described today is not going to happen overnight, and it is not inevitable.  There may be stumbles and setbacks along the way.  There are going to be times where there are misunderstandings.  It will take sustained effort and true dialogue where both sides continue to change.  But considering all the history and hurdles that we've already overcome, I stand before you today very optimistic about our future together.  (Applause.)  And my confidence is rooted, as always, in the friendship and shared aspirations of our peoples.
I think of all the Americans and Vietnamese who have crossed a wide ocean -- some reuniting with families for the first time in decades -- and who, like Trinh Cong Son said in his song, have joined hands, and opening their hearts and seeing our common humanity in each other.  (Applause.) 
I think of all the Vietnamese Americans who have succeeded in every walk of life -- doctors, journalists, judges, public servants.  One of them, who was born here, wrote me a letter and said, by “God’s grace, I have been able to live the American Dream…I'm very proud to be an American but also very proud to be Vietnamese.”  (Applause.)  And today he’s here, back in the country of his birth, because, he said, his “personal passion” is “improving the life of every Vietnamese person.”
I think of a new generation of Vietnamese -- so many of you, so many of the young people who are here -- who are ready to make your mark on the world.  And I want to say to all the young people listening:  Your talent, your drive, your dreams -- in those things, Vietnam has everything it needs to thrive.  Your destiny is in your hands.  This is your moment.  And as you pursue the future that you want, I want you to know that the United States of America will be right there with you as your partner and as your friend.  (Applause.) 
And many years from now, when even more Vietnamese and Americans are studying with each other; innovating and doing business with each other; standing up for our security, and promoting human rights and protecting our planet with each other -- I hope you think back to this moment and draw hope from the vision that I’ve offered today.  Or, if I can say it another way -- in words that you know well from the Tale of Kieu -- “Please take from me this token of trust, so we can embark upon our 100-year journey together.”  (Applause.)
Cam on cac ban.  Thank you very much.  Thank you, Vietnam.  Thank you.  (Applause.) 

END

12:43 P.M. ICT















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét